(Sửa Luật Sở hữu trí tuệ) – Việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi) sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ.
Việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi) sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nền kinh tế trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh như vậy trong phát biểu khai mạc hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách, sáng 28/3, cũng là hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách đầu tiên của khoá XV, nhằm chuẩn bị tốt nhất cho kỳ họp thứ ba của Quốc hội (tháng 5/2022).
Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước nhanh và bền vững, đã được Đảng ta đề ra từ Đại hội XI và tiếp tục được xác định là khâu đột phá trọng tâm ưu tiên hàng đầu trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và cả giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.
Ông Vương Đình Huệ nêu rõ, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng đoàn Quốc hội đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Kế hoạch số 81 triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Trong đó xác định 137 nhiệm vụ lập pháp với 8 nhóm định hướng lớn và 70 định hướng cụ thể nhằm hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, huy động, quản lý và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước.
Nêu rõ Kỳ họp thứ 3 của Quốc hội sắp tới có nội dung trọng tâm về công tác lập pháp, Chủ tịch Quốc hội cho biết Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã dành nhiều thời gian cho ý kiến toàn diện các dự án Luật, nhất là các vấn đề lớn, quan trọng và các vấn đề còn có ý kiến khác nhau; chỉ đạo cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp cơ quan soạn thảo hoàn thiện hồ sơ, báo cáo giải trình, tiếp thu để xin ý kiến Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách.
Về các dự án luật cụ thể, với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Chủ tịch Quốc hội nói, nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi; bảo hộ và khai thác hiệu quả, hợp lý các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra; khuyến khích thương mại hóa và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ… đã sớm được Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đề ra.
Mặc dù là Luật sửa đổi, bổ sung nhưng có đến hơn 100 điều của Luật hiện hành phải sửa đổi; đồng thời, còn điều chỉnh một số quy định tại 4 luật khác có liên quan. Việc ban hành Luật sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nền kinh tế trong điều kiện cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đồng thời bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, Chủ tịch Quốc hội đánh giá.
Về dự thảo Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi), Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, thi đua, khen thưởng là động lực nhằm phát triển kinh tế – xã hội bền vững và góp phần bảo vệ chế độ chính trị – xã hội. Công tác thi đua, khen thưởng là công cụ quản lý quan trọng, tham gia thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, xây dựng con người mới; lay động mạnh mẽ đến tình cảm, trách nhiệm, ý chí tự lực tự cường, lòng tự hào của cộng đồng và sức sáng tạo của tập thể, cá nhân.
Việc sửa đổi toàn diện Luật Thi đua, khen thưởng nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng, tư tưởng về thi đua yêu nước Chủ tịch Hồ Chí Minh về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Luật Điện ảnh, theo Chủ tịch Quốc hội, được sửa đổi toàn diện nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013, xây dựng nền điện ảnh Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong tổng thể phát triển của văn hóa – xã hội, đảm bảo tính minh bạch, tính khả thi cao và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, thực hiện hiệu quả cam kết trong các khuôn khổ pháp lý quốc tế về lĩnh vực điện ảnh và phát triển công nghiệp điện ảnh.
Liên quan đến dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi), Chủ tịch Quốc hội nhìn nhận, hiện nay, tiềm năng thị trường bảo hiểm tại Việt Nam rất lớn, nhu cầu bảo hiểm ngày càng cao. Trong khi đó, quy mô thị trường bảo hiểm còn khiêm tốn, tỉ lệ doanh thu phí bảo hiểm/GDP còn thấp; chất lượng sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm không ổn định; thông tin và nguồn thông tin về doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm còn chưa đa dạng, đầy đủ, toàn diện, dễ phát sinh tranh chấp.
Do đó, dự án Luật này đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021 và Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 2 theo hướng sửa đổi toàn diện nhằm kịp thời giải quyết các vấn đề thực tiễn đang đặt ra; xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Việc này cũng đồng thời, thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ hiện đại, có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, logistic…Chủ tịch Quốc hội phát biểu.
Ngay sau phát biểu của Chủ tịch Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội thảo luận về dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi).
Theo Báo đầu tư
ạn đang đọc bài viết: “Sửa Luật Sở hữu trí tuệ góp phần quan trọng thúc đẩy đổi mới, sáng tạo”tại chuyên mục tin thẩm định giá của Công ty cổ phần Thẩm định giá Thành Đô.
(TDVC Xác định giá trị tên thương mại doanh nghiệp) – Tên thương mại của doanh nghiệp là một thành tố góp phần vào sự phát triển và thành đạt của doanh nghiệp, là yếu tố đầu tiên và quan trọng trong chiến lược xâm nhập và mở rộng thị trường. Tuy nhiên, tên thương mại lại là tài sản trí tuệ nên việc định giá không giống như tài sản hữu hình mà phải nghiên cứu các văn bản pháp lý liên quan để đánh giá đúng giá trị của tên thương mại.
Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến xác định giá trị tài sản trí tuệ là tên thương mại của doanh nghiệp và đề xuất một số kiến nghị.
1. Các vấn đề pháp lý liên quan đến xác định giá trị TSTT là tên thương mại của doanh nghiệp
Tài sản trí tuệ đã nổi lên như một nhân tố quan trọng trong chiến lược của doanh nghiệp vào những năm 1990. Cho đến nay, các tài sản trí tuệ đã trở thành công cụ hữu hiệu giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và xa hơn nữa là tạo động lực phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia. Việc định giá tài sản trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng đối với các hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ, như: chuyển giao ứng dụng, góp vốn, nhượng quyền thương mại, nhượng quyền thương hiệu, mua bán, sáp nhập, cổ phần hóa, thế chấp,…
Theo Khoản 2, Điều 3, Thông tư liên tịch số 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC ngày 17/12/2014 quy định việc định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phái triển công nghệ, tài sản sử dụng ngân sách nhà nước như sau:
“Tài sản trí tuệ là tài sản vô hình, có tính sáng tạo, xác định được, kiểm soát được và có khả năng mang lại lợi ích kinh tế cho chủ sở hữu tài sản đó.
Tài sản trí tuệ bao gồm đối tượng được bảo hộ và đối tượng không được bảo hộ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ như sáng chế, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, tên thương mại, giống cây trồng, chương trình máy tính, tác phẩm khoa học, sáng kiến, giống vật nuôi, thiết kế kỹ thuật”.
Tên thương mại của doanh nghiệp là đối tượng bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ, là tài sản của doanh nghiệp với những đóng góp đáng kể vào thành công của doanh nghiệp và do tiềm năng của tên thương mại đối với các doanh nghiệp trong việc tạo ra giá trị tài sản trí tuệ của mình đã dẫn tới nhu cầu ngày càng gia tăng về phương pháp định giá quyền sở hữu trí tuệ đối với tên thương mại.
Tuy nhiên, hiện nay, giá trị tài sản của tên thương mại chưa được đánh giá đầy đủ, cũng như chưa được các doanh nghiệp nhận thức đúng mức và coi đó là tài sản kinh doanh có giá trị lớn của doanh nghiệp. Chính vì vậy, khi thành lập doanh nghiệp, ngoài việc xác định tài sản cố định, mỗi doanh nghiệp cần quan tâm đến tài sản trí tuệ – là yếu tố quan trọng góp phần quyết định vào sự thành công.
Để xác định được giá trị tài sản tên thương mại của doanh nghiệp, trước hết chúng ta cần phải phân biệt giữa giá và giá trị của tài sản trí tuệ. Giá thường được định nghĩa là những gì người mua sẵn sàng chi trả trong một giao dịch bình thường căn cứ trên giá trị của hàng hóa. Còn giá trị là một thuật ngữ trìu tượng, nhưng có chất lượng xác định mà việc tính toán được dựa trên một hệ thống các phương pháp, các nguyên tắc được kiểm tra theo trình tự. Việc định giá tài sản trí tuệ có thể ảnh hưởng đến giá của một tài sản trí tuệ, nhưng điều này không nhất thiết giống như việc xác định giá cho sản phẩm[1].
Thẩm định tài sản trí tuệ một cách có cơ sở và đáng tin cậy theo tiêu chuẩn quốc tế và phù hợp với Việt Nam, trong đó, đặc biệt là tài sản có thương hiệu như tên thương mại sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp góp vốn hợp tác, kinh doanh chuyển nhượng các tài sản trí tuệ một cách thuận lợi như các tài sản khác[2].
Các công cụ được định giá để xác định tài sản đối với tên thương mại giúp cho doanh nghiệp quản lý được tài sản trí tuệ một cách có hiệu quả và năng suất hơn. Việc định giá tên thương mại tạo ra một tiêu chuẩn hữu ích hơn và làm cơ sở để đàm phán trong trường hợp chuyển giao hoặc mua bán tài sản trí tuệ của doanh nghiệp, như: Văn bản hướng dẫn xác định tài sản vô hình là Tiêu chuẩn Thẩm định giá số 13 – Thẩm định giá tài sản vô hình (Ký hiệu: TĐGVN 13) ban hành kèm theo Thông tư số 06/2014/TT-BTC ngày 07/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Văn bản đã hướng dẫn cách thức thẩm định giá tài sản vô hình; Thông tư liên tịch số 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC ngày 17/12/2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính quy định việc định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư số 127/2014/TT-BTC ngày 05/9/2014 hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp; Luật Sở hữu trí tuệ (các năm 2005, 2009, 2019).
Quy định về phương pháp định giá được thể hiện trong một số văn bản pháp luật như: Luật Giá số 11/2012/QH13; Nghị định số 89/2013/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá; Thông tư số 06/2014/TT – BTC ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá số 13; Thông tư liên tịch số 39/2014/TTLT – BKHCN – BTC giữa Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài chính quy định việc định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, TSTT sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư số 10/2019/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định giá trị tài sản là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước.
Hiện nay, việc định giá tài sản trí tuệ được thực hiện bằng 3 phương pháp cơ bản, đó là: phương pháp chi phí, phương pháp thị trường và phương pháp thu nhập. Trong đó, cách tiếp cận từ thị trường sẽ xác định giá trị của tài sản trí tuệ căn cứ vào việc so sánh, phân tích thông tin của các tài sản trí tuệ tương tự có giá giao dịch trên thị trường.
Cách tiếp cận từ chi phí căn cứ vào chi phí tái tạo ra tài sản trí tuệ, giống nguyên mẫu với tài sản cần thẩm định giá hoặc chi phí thay thế, để tạo ra một tài sản trí tuệ tương tự có cùng chức năng, công dụng theo giá thị trường hiện hành. Còn riêng với cách tiếp cận từ thu nhập sẽ tiến hành xác định giá trị của tài sản trí tuệ thông qua giá trị hiện tại của các khoản thu nhập, các dòng tiền và chi phí tiết kiệm do tài sản trí tuệ mang lại. Theo phương pháp này, giá trị tài sản trí tuệ là giá trị hiện tại của dòng thu nhập có được từ tài sản trí tuệ trong tương lai với tỷ lệ chiết khấu thích hợp.
Thông tư số 202/2011/TT-BTC ngày 30/12/2011 của Bộ Tài chính quy định việc xác định giá trị thương hiệu là để góp phần xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp khi định giá doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa. Theo đó, giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Như vậy, Thông tư này dựa trên phương pháp chi phí để xác định giá trị thương hiệu.
Thông tư số 127/2014/TT-BTC quy định việc xác định giá trị “thương hiệu” là để góp phần xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp khi định giá doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa: “Giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp…” và Thông tư số 06/2014/TT-BTC ngày 07/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 Thẩm định giá tài sản vô hình đã hướng dẫn cách thức thẩm định giá tài sản vô hình.
Do vậy, việc xác định giá trị thương hiệu để góp phần xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp khi doanh nghiệp cổ phần hóa “Giá trị thương hiệu được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc tạo dựng và bảo vệ nhãn hiệu, tên thương mại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp”. Theo quy định của Thông tư này, cách tính giá trị của tên thương mại dựa theo phương pháp chi phí quá khứ và giá trị thương hiệu được hình thành từ giá trị nhãn hiệu và tên thương mại[3].
Tuy nhiên, theo tác giả, quy định này là chưa phù hợp, không nên quy định giá trị “thương hiệu” là căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa. Để phù hợp với quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, nên quy định giá trị của tên thương mại là căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp vì “thương hiệu” không phải là một đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ.
2. Hạn chế và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về xác định giá trị tài sản là tên thương mại của doanh nghiệp
tài sản trí tuệ là loại tài sản vô hình, không thể xác định bằng các đặc điểm vật chất của chính nó, nhưng lại có giá trị và khả năng sinh ra lợi nhuận, do đó, để thẩm định giá quyền sở hữu trí tuệ, cần nắm rõ TSTT. Song hiện nay, việc định giá tài sản trí tuệ khó khăn và có nhiều khác biệt hơn so với tài sản hữu hình, xuất phát từ các nguyên nhân sau:
– Chưa có một văn bản quốc tế nào điều chỉnh việc định giá tài sản trí tuệ, vì vậy, việc định giá chủ yếu vẫn được thực hiện theo hướng dẫn về định giá các tài sản vô hình số 4 do hội đồng định giá quốc tế[4] (IVSC) công bố. Hướng dẫn này được coi là một tài liệu mang tính tham khảo chung.
– Ở Việt Nam, các quy định về định giá tài sản trí tuệ còn khá sơ sài, các văn bản pháp luật hầu như không điều chỉnh trực tiếp vấn đề định giá tài sản trí tuệ mà chỉ đề cập tới các quy định mang tính chất nguyên tắc về cách thức dựa trên tính toán của tài sản vô hình trong đó bao gồm cả tài sản trí tuệ. Ngay cả trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009, năm 2019 và các văn bản chuyên ngành cũng chưa có một quy định cụ thể nào về định giá tài sản trí tuệ. Điều này dẫn tới các doanh nghiệp thường rất lúng túng khi định giá các tài sản, đôi khi có việc định giá sai, thấp hơn so với giá trị thực tế đem lại những hậu quả đáng tiếc cho các doanh nghiệp.
– Định giá là loại hoạt động chuyên môn vừa mang tính kinh tế – kỹ thuật, tính pháp lý, vừa mang tính xã hội. Hoạt động định giá hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự hình thành, tồn tại và phát triển của thị trường nhưng hoạt động định giá tài sản trí tuệvẫn chưa được quan tâm đúng mức; còn có ít tổ chức định giá tài sản trí tuệ có uy tín; những quy định pháp luật, kiến thức, kỹ năng về định giá tài sản trí tuệ còn chưa được phổ biến rộng rãi, do đó, gây không ít khó khăn cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và sản xuất, kinh doanh.
3. Một số kiến nghị
Một là, Việt Nam cần xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật về định giá tài sản trí tuệ để đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Các nghị định, văn bản hướng dẫn cần bổ sung quy định về các phương pháp định giá như đã đề cập ở các nội dung trước để các chủ thể có thể lựa chọn phương pháp phù hợp với điều kiện của mình.
Hai là, đối với tên thương mại của doanh nghiệp cần có những quy định cụ thể như: “Thương hiệu” có được coi là tài sản cố định vô hình, thương hiệu được tạo thành từ yếu tố nào (chứ không chỉ là nhãn hiệu và tên thương mại như hiện nay) trong nhóm đối tượng được bảo hộ của Luật Sở hữu trí tuệ, bởi khái niệm thương hiệu theo định nghĩa của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) là một dấu hiệu của nhà sản xuất gắn lên mặt, lên bao bì hàng hóa, nhằm khẳng định chất lượng và xuất xứ sản phẩm. Thương hiệu thường được gắn liền với quyền sở hữu của nhà sản xuất hay được cung cấp bởi một cá nhân hay một tổ chức. Báo cáo thường niên của WIPO cũng chỉ ra rằng: “xây dựng thương hiệu là một trong những cơ chế quan trọng nhất đối với doanh nghiệp để đảm bảo lợi nhuận vào việc đổi mới sản phẩm”
Tên thương mại không được định giá nếu việc chuyển nhượng tên thương mại đó không đi kèm với toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó. Pháp luật ghi nhận có nhiều cách thức để chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt của mình đối với tên thương mại, nhưng khi định đoạt đối với tên thương mại chủ sở hữu cần lưu ý: Quyền chuyển nhượng cho người khác toàn bộ quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp phải được thực hiện dưới hình thức ký kết hợp đồng bằng văn bản (gọi là hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp) phù hợp với quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự, kinh tế; đồng thời việc chuyển giao tên thương mại phải được tiến hành cùng với toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh với tên thương mại đó. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa chuyển giao quyền sở hữu tên thương mại so với chuyển giao các tài sản thông thường khác.
Ba là, chú trọng xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích việc khai thác các khía cạnh thương mại của tài sản trí tuệ. Để tăng cường hoạt động này, Bộ Tài chính và cơ quan sở hữu trí tuệ cần thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên môn về định giá TSTT, tổ chức thi sát hạch và cấp chứng chỉ, đảm bảo chất lượng đào tạo, không ngừng nâng cao năng lực và trình độ cho các cán bộ chuyên trách định giá tài sản trí tuệ.
Bốn là, các doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức về vai trò của TSTT và định giá TSTT đối với sự phát triển doanh nghiệp. Việc không chú trọng tới giá trị các TSTT chính là nguyên nhân dẫn đến những sự thất thoát nguồn vốn, thiệt hại lợi ích của doanh nghiệp trong các hoạt động cổ phần hóa, liên doanh, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp thời gian vừa qua[6].
Để có thể quản lý và khai thác giá trị các tài sản trí tuệ một cách hiệu quả, các doanh nghiệp cần phải chú trọng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xây dựng chiến lược quản lý, kiểm soát TSTT phù hợp để phản ánh đầy đủ và chính xác giá trị tài sản vô hình nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng. Doanh nghiệp cần xác định xem những loại tài sản trí tuệ nào cần được định giá, ví dụ: doanh nghiệp cần xác định: Tài sản có khả năng nhận diện không; Tài sản có tạo ra các lợi ích cho doanh nghiệp không; Tài sản có được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ không; Tài sản có thể được chuyển nhượng không.
Theo https://tapchitaichinh.vn/
Bạn đang đọc bài viết: “Các vấn đề pháp lý liên quan đến xác định giá trị tài sản trí tuệ là tên thương mại của doanh nghiệp”tại chuyên mục tin thẩm định giá của Công ty cổ phần Thẩm định giá Thành Đô, đơn vị thẩm định giá uy tín hàng đầu Việt Nam.
(TDVC Đặc trưng nhận biết quyền sở hữu trí tuệ) – Trí tuệ là khả năng nhận thức lí tính đạt đến một trình độ nhất định. Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền sở hữu đối với sản phẩm của hoạt động trí tuệ và tinh thần như tác phẩm văn học, nghệ thuật, tác phẩm khoa học, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý và giống cây trồng. Quyền sở hữu trí tuệ là tài sản vô hình được hưởng sự công nhận pháp lý và bảo vệ pháp luật đặc biệt. Luật pháp đã cung cấp một sự công nhận đặc biệt là kết quả của thói quen pháp lý. Đó là, các tòa án đã công nhận các quyền và các ưu đãi đặc biệt của một số tài sản vô hình đủ để chúng trở thành quyền sở hữu trí tuệ.
Có 5 loại quyền Sở hữu trí tuệ chung cho mục đích chứng minh các đặc trưng duy nhất của chúng. Năm loại quyền Sở hữu trí tuệ đó là tương tự đối với các loại tài sản vô hình cụ thể trong đó chúng sẽ được bao gồm. Năm loại đó không nên nhầm lẫn với hai loại của quyền sở hữu trí tuệ – sáng lập và đổi mới, là hai loại miêu tả tiến trình phát triển của quyền Sở hữu trí tuệ . Năm loại chung của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
Liên quan đến Marketing: Nhãn hiệu và các biểu tượng dịch vụ
Liên quan đến kỹ thuật: Một số loại phát minh
Liên quan đến nghệ thuật: Văn hóa và bản quyền âm nhạc
Liên quan đến việc xử lý dữ liệu: Bản quyền phần mềm máy tính, các mặt nạ và vật chủ của chip máy tính
Nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng dịch vụ, và logo nhận được sự bảo vệ của pháp luật. Người chủ sở hữu của một biểu tượng có quyền loại trừ người khác khỏi việc sử dụng biểu tượng liên quan tới sự sở hữu của mình mà người tiêu dùng thông thường sẽ có khả năng nhầm lẫn về nguồn gốc hoặc sự bảo lãnh của hàng hóa hoặc dịch vụ. Sự đăng ký nhãn hiệu thương mại cung cấp cho chủ sở hữu nhãn hiệu một số thuận lợi thủ tục pháp lý quan trọng nếu có những thách thức phát sinh liên quan đến sử dụng hoặc sở hữu nhãn hiệu.
Quyền pháp lý bảo vệ phát minh không tồn tại cho đến khi phát minh được cấp phép thực sự. Tuy nhiên, một khi phát minh được cấp phép, người chủ sở hữu có quyền loại trừ các người khác khỏi việc sử dụng, hoặc bán sản phẩm phát minh trong giai đoạn bảo vệ phát minh.
3. Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến kỹ thuật
Bản quyền có giá trị pháp lý trong thời gian sống của tác giả cộng thêm 50 năm. Trong trường hợp có đồng tác giả thì thời gian bảo hộ chấm dứt vào 50 năm sau đồng tác giả cuối cùng chết. Mặc dù không yêu cầu đăng ký để duy trì sự bảo vệ bản quyền, việc đăng ký bản quyền cho phép chủ sở hữu một số phương thức thuận lợi trong trường hợp khiếu kiện sự xâm phạm.
4. Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến xử lý dữ liệu
Nếu đáp ứng một số yêu cầu, phần mềm máy tính tuân theo sự đăng ký và bảo vệ bản quyền. Như với bản quyền, nó không cần thiết đăng ký để được hưởng sự bảo vệ bản quyền. Tuy nhiên, việc đăng ký bản quyền sẽ cung cấp cho người chủ sở hữu một số thuận lợi trong việc khiếu kiện sự xâm phạm.
5. Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến kỹ thuật ứng dụng công nghệ
Các bí mật thương mại và tài liệu ứng dụng kỹ thuật liên quan (như thiết kế, bản vẽ, sơ đồ, biểu đồ, họa đồ, công thức hóa chất, bí mật thương mại…) được bảo vệ bởi cơ quan pháp luật. Sự bảo vệ được thực hiện đối với quyền Sở hữu trí tuệ liên quan tới kỹ thuật ứng dụng công nghệ khi các chủ sở hữu tiến hành các bước đi tích cực và thận trọng để duy trì sự bí mật của quyền Sở hữu trí tuệ.
Tài liệu thao khảo: Tuyển tập phương pháp thẩm định giá trị các loại tài sản vô hình, quyền sở hữu trí tuệ định giá công nghệ và giá chuyển giao bên trong các công ty đa quốc gia
Bạn đang đọc bài viết:“Đặc trưng để nhận biết quyền sở hữu trí tuệ”tại chuyên mục tin thẩm định giá của Công ty cổ phần Thẩm định giá Thành Đô, đơn vị thẩm định giá tài sản hàng đầu tại Việt Nam.